VANTHONGLAW - Công văn số 163/TANDTC-PC ngày 10/9/2024 của Toà án Nhân dân tối cao về việc giải đáp một số vướng mắc trong xét xử
|
TÒA
ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO |
CỘNG
HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM |
|
Số:
163/TANDTC-PC |
Hà
Nội, ngày 10 tháng 9 năm 2024 |
|
Kính
gửi: |
- Các Tòa án nhân dân và Tòa án
quân sự; |
Qua công tác tổng kết thực tiễn xét xử, Tòa án nhân dân tối
cao nhận được phản ánh của các Tòa án về một số vướng mắc khi giải quyết các vụ
việc. Để bảo đảm áp dụng thống nhất pháp luật, Tòa án nhân dân tối cao có ý
kiến như sau:
I. HÌNH SỰ, TỐ TỤNG HÌNH SỰ
1. Điều 63 của Bộ luật Hình sự năm
2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) quy định điều kiện được giảm mức hình phạt
đã tuyên, trong đó phải có điều kiện “Bồi thường được một phần nghĩa vụ dân
sự”. Trường hợp đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, trong bản án có tuyên cha
mẹ bị cáo phải bồi thường cho bị hại. Tuy nhiên, Điều 105 của Bô
luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) quy định điều kiện được
giảm mức hình phạt đã tuyên đối với người dưới 18 tuổi không quy định về điều
kiện phải bồi thường, nếu cha mẹ của phạm nhân không thực hiện việc bồi thường
thì phạm nhân là người dưới 18 tuổi có được giảm mức hình phạt đã tuyên không
(các điều kiện khác đều đảm bảo)?
Theo quy định tại Điều 105 của Bộ luật Hình
sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) về giảm mức hình phạt đã tuyên đối
với người dưới 18 tuổi thì không quy định điều kiện bồi thường là một trong các
điều kiện được xét giảm. Do đó, việc cha mẹ của người dưới 18 tuổi không thực
hiện việc bồi thường thì họ vẫn được giảm mức hình phạt đã tuyên.
2. Nguyễn Văn A có hành vi phá két sắt nhằm mục đích
trộm cắp tài sản và đã lấy được số tiền 5.000.000 đồng; két sắt do Nguyễn Văn A
hủy hoại có giá trị 10.000.000 đồng. Trường hợp này, Nguyễn Văn A chỉ phạm 01
tội là “Tội trộm cắp tài sản” hay phạm 02 tội là “Tội trộm cắp tài sản” và “Tội
hủy hoại tài sản”.
Mặc dù Nguyễn Văn A chỉ có động cơ, mục đích là trộm cắp
nhưng buộc Nguyễn Văn A phải nhận thức hành vi phá két sắt là hủy hoại tài sản
của người khác. Vì vậy, hành vi của Nguyễn Văn A cấu thành 02 tội là “Tội
trộm cắp tài sản” quy định tại Điều 173 và “Tội hủy
hoại tài sản” quy định tại Điều 178 của Bộ luật Hình sự năm
2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).
3. Quy định “Làm cho quan hệ hôn nhân của một hoặc
hai bên dẫn đến ly hôn” tại điểm a khoản 1 Điều 182 của Bộ luật
Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) được hiểu như thế nào?
Quy định tại điểm a khoản 1 Điều 182 của Bộ
luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) được hiểu là người đang
có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác hoặc
người chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với
người mà mình biết rõ là đang có chồng, có vợ mà dẫn đến hậu quả quan hệ hôn
nhân của một hoặc hai bên ly hôn.
Theo quy định tại khoản 14 Điều 3 của Luật
Hôn nhân và gia đình năm 2014 thì “Ly hôn là việc chấm dứt quan hệ vợ
chồng theo bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án”. Theo đó,
quan hệ vợ, chồng chỉ kết thúc khi có bản án, quyết định có hiệu lực của Tòa
án.
4. Nguyễn Văn A là nhân viên của cửa hàng điện thoại
di động MT do ông Trần Thanh B làm chủ, cửa hàng MT được đăng ký kinh doanh là
hộ kinh doanh. Trong quá trình làm việc tại cửa hàng, Nguyễn Văn A được giao
nhiệm vụ thu tiền bán thẻ điện thoại, máy điện thoại và có trách nhiệm trực
tiếp quản lý tiền thu được và nộp lại cho chủ cửa hàng. Nguyễn Văn A đã lợi
dụng nhiệm vụ được giao, sau khi thu tiền của khách hàng, Nguyễn Văn A không
nộp về cho cửa hàng mà chiếm đoạt số tiền 20.000.000 đồng. Hành vi của Nguyễn
Văn A bị truy cứu trách nhiệm hình sự về “Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài
sản” hay “Tội tham ô tài sản”?
Theo khoản 6 Điều 353 của Bộ luật Hình sự
năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) thì người có chức vụ, quyền hạn trong
các doanh nghiệp, tổ chức ngoài Nhà nước mà tham ô tài sản, thì bị truy cứu
trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều này. Theo quy định tại khoản 1 Điều 79 của Nghị định số 01/2021/NĐ-CP ngày 04/01/2021
của Chính phủ về đăng ký doanh nghiệp thì “Hộ kinh doanh do một cá nhân hoặc
các thành viên hộ gia đình đăng ký thành lập và chịu trách nhiệm bằng toàn bộ
tài sản của mình đối với hoạt động kinh doanh của hộ...”. Theo quy
định tại khoản 10 Điều 4 của Luật Doanh nghiệp năm 2020 thì
“doanh nghiệp là tổ chức có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch, được
thành lập hoặc đăng ký thành lập theo quy định của pháp luật nhằm mục đích kinh
doanh”. Như vậy, hộ kinh doanh không phải là doanh nghiệp theo quy định của
Luật Doanh nghiệp năm 2020. Do đó, hành vi nêu trên của Nguyễn Văn A cấu thành
“Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại Điều 175 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm
2017).
5. Nguyễn Văn A vi phạm quy định về tham gia giao
thông đường bộ gây tai nạn chết người. Trong quá trình điều tra phát hiện,
Nguyễn Văn A dùng giấy phép lái xe hạng B2 giả (Nguyễn Văn A cung cấp thông tin
của mình cho đối tượng làm giả) để điều khiển phương tiện tham gia giao thông
đường bộ.
Trường hợp này, Nguyễn Văn A bị truy cứu trách nhiệm
hình sự về “Tội làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan tổ chức” hay “Tội
sử dụng con dấu hoặc tài liệu của cơ quan, tổ chức”?
Trường hợp này ngoài việc Nguyễn Văn A bị truy cứu trách
nhiệm hình sự về “Tội vi phạm về quy định tham gia giao thông đường bộ”
theo quy định tại Điều 260 của Bộ luật Hình sự năm 2015
(sửa đổi, bổ sung năm 2017), thì bị cáo còn bị truy cứu trách nhiệm hình sự về
“Tội sử dụng con dấu hoặc tài liệu giả của cơ quan, tổ chức” theo quy
định tại Điều 341 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ
sung năm 2017).
6. Nguyễn Văn A nhờ người làm giả căn cước công dân
đứng tên người khác. Sau khi nhận được căn cước công dân giả thì Nguyễn Văn A
dán ảnh của mình trên căn cước công dân đó để lừa đảo chiếm đoạt 1.800.000.000
đồng.
Trường hợp này, Nguyễn Văn A bị truy cứu trách nhiệm
hình sự về “Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo Điều 174 của
Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) hay bị truy cứu trách
nhiệm hình sự về 02 tội là “Tội làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức”
theo Điều 341 và “Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo Điều 174 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm
2017)?
Nguyễn Văn A bị truy cứu trách nhiệm hình sự về “Tội lừa
đảo chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại điểm a khoản 4
Điều 174 của Bộ luật Hình sự năm 2015`` (sửa đổi, bổ sung năm 2017) và “Tội
làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức” với tình tiết định khung “Sử
dụng con dấu, tài liệu hoặc giấy tờ khác thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng
hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng” theo quy định tại điểm
b khoản 3 Điều 341 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm
2017).
7. Một người có một trong các hành vi quy định tại khoản 1 Điều 158 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ
sung năm 2017) trong thời gian bao lâu thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
Trường hợp con ở cùng nhà với cha mẹ (nhà thuộc quyền
sở hữu của cha mẹ) mà đuổi cha mẹ ra khỏi nhà thì có bị truy cứu trách nhiệm
hình sự về “Tội xâm phạm chỗ ở của người khác” theo quy định tại Điều
158 của Bộ luật Hình sự không?
Điều 158 của Bộ luật Hình sự năm 2015
(sửa đổi, bổ sung năm 2017) không quy định xâm phạm chỗ ở của người khác trong
thời gian bao lâu thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Do đó, người nào thực
hiện một trong các hành vi quy định tại khoản 1 Điều 158 của Bộ
luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) thì bị truy cứu trách
nhiệm hình sự, nếu đủ yếu tố cấu thành tội phạm.
Trường hợp con ở chung với cha mẹ mà đuổi cha mẹ ra khỏi
nhà, thì hành vi này bị truy cứu trách nhiệm hình sự về “Tội ngược đãi hoặc
hành hạ cha mẹ” theo quy định tại Điều 185 của Bộ luật Hình
sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), nếu có đủ yếu tố cấu thành tội
phạm.
8. Đối với các tội phạm thực hiện hành vi vi phạm kéo
dài thì thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự được tính từ thời điểm nào, ngày
tội phạm thực hiện hay ngày hành vi bị phát hiện?
Thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự trong trường hợp nêu
trên được xác định như sau: Trường hợp hành vi phạm tội kéo dài đã kết thúc thì
thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự được tính từ thời điểm tội phạm kết
thúc; trường hợp hành vi phạm tội kéo dài chưa kết thúc thì thời hiệu truy cứu
trách nhiệm hình sự được tính từ thời điểm hành vi tội phạm bị phát hiện.
9. Tại khoản 6 Điều 134 của Bộ luật
Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) quy định “Người nào chuẩn bị
vũ khí, vật liệu nổ, hung khí nguy hiểm, a-xít nguy hiểm, hóa chất nguy hiểm
hoặc thành lập hoặc tham gia nhóm tội phạm nhằm gây thương tích hoặc gây tổn
hại cho sức khỏe của người khác, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm
hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm”. Trường hợp này có phải xác định cụ thể
đối tượng mà bị cáo nhằm gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe hay không?
Theo Công văn số 89/TANDTC-PC ngày 30/6/2020 của Tòa án
nhân dân tối cao thì quy định nêu trên không bắt buộc người phạm tội phải hoàn
thành hành vi khách quan là gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác và cũng không bắt buộc phải có hậu quả xảy ra. Tuy nhiên, trường hợp
này, để truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định tại khoản 6
Điều 134 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) thì phải
xác định được người mà bị cáo nhằm gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe.
10. Theo quy định tại khoản 2 Điều 36
của Luật Xuất cảnh, nhập cảnh của công dân Việt Nam năm 2019 thì người được
hoãn chấp hành án phạt tù, người được tạm đình chỉ chấp hành án phạt tù, người
được tha tù trước thời hạn có điều kiện trong thời gian thử thách, người được
hưởng án treo trong thời gian thử thách, người chấp hành án phạt cải tạo không
giam giữ trong thời gian chấp hành án theo quy định của Luật Thi hành án hình
sự năm 2019 thì bị tạm hoãn xuất cảnh. Vậy Tòa án có phải ra quyết định tạm
hoãn xuất cảnh đối với các trường hợp trên hay không? Bộ luật Tố tụng hình sự
năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2021), Luật Thi hành án hình sự năm 2019 không
quy định nội dung này?
Theo quy định tại khoản 2 Điều 37 của Luật
Xuất cảnh, nhập cảnh của công dân Việt Nam năm 2019 thì thẩm quyền quyết
định tạm hoãn xuất cảnh, gia hạn, hủy bỏ tạm hoãn xuất cảnh là cơ quan, người
có thẩm quyền ra quyết định hoãn chấp hành án phạt tù, tạm đình chỉ chấp hành
án phạt tù, tha tù trước thời hạn có điều kiện, thi hành án treo, thi hành án
phạt cải tạo không giam giữ.
Đây là quy định mới của Luật Xuất cảnh, nhập cảnh của công
dân Việt Nam năm 2019. Mặc dù, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ
sung năm 2021), Luật Thi hành án hình sự năm 2019 chưa quy định thủ tục này.
Tuy nhiên, để bảo đảm áp dụng quy định này kịp thời, góp phần ngăn chặn, phòng
ngừa việc trốn tránh nghĩa vụ chấp hành án của người bị kết án, khi ra quyết
định hoãn chấp hành án phạt tù, tạm đình chỉ chấp hành án phạt tù, tha tù trước
thời hạn có điều kiện, thi hành án treo, thi hành án phạt cải tạo không giam
giữ, Tòa án bổ sung nội dung tạm hoãn xuất cảnh trong quyết định.
11. Sau khi kết thúc phiên tòa sơ thẩm, Hội đồng xét
xử ra quyết định tạm giam 45 ngày để đảm bảo thi hành án, bị cáo và những người
tham gia tố tụng không kháng cáo. Tuy nhiên, chưa đến ngày ra quyết định thi
hành án thì có tài liệu chứng minh bị cáo đang bị bệnh hiểm nghèo, suy tim độ
III có thể dẫn đến tử vong, phải nhập viện điều trị, gia đình bị cáo xin bảo
lĩnh để tiếp tục điều trị bệnh cho bị cáo. Vậy trường hợp này, thẩm quyền giải
quyết như thế nào?
Trường hợp nêu trên, người bị tạm giam vẫn phải thi hành
Quyết định tạm giam của Hội đồng xét xử. Nếu bị cáo đang bị bệnh hiểm nghèo,
suy tim độ III có thể dẫn đến tử vong phải nhập viện thì gia đình phải liên hệ
ngay với cơ quan quản lý thi hành tạm giữ, tạm giam để thực hiện thủ tục liên
quan đến trích xuất đưa đi khám bệnh, chữa bệnh theo quy định tại Điều 20 của Luật Thi hành tạm giữ, tạm giam năm 2015.
12. Nguyễn Văn A gửi xe ô tô tại địa điểm do Nguyễn
Văn B quản lý, được phép hoạt động, có thu tiền gửi xe. Nguyễn Văn C đã lấy
trộm xe ô tô của Nguyễn Văn A. Trường hợp này xác định ai là bị hại?
Trường hợp này, Nguyễn Văn A là bị hại vì xe ô tô thuộc sở
hữu của A, Nguyễn Văn B là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án.
13. Bị cáo Nguyễn Văn A bị xét xử sơ thẩm và tuyên án
ngày 01/3/2023. Ngày 07/3/2023, Nguyễn Văn A kháng cáo đối với bản án sơ thẩm.
Ngày 10/3/2023, Nguyễn Văn A có đơn xin rút kháng cáo. Tuy nhiên, Tòa án cấp sơ
thẩm chưa ra thông báo về việc kháng cáo. Trường hợp này, Tòa án cấp sơ thẩm xử
lý như thế nào, có chuyển hồ sơ đến Tòa án cấp phúc thẩm không?
Trường hợp này, Tòa án cấp sơ thẩm vẫn phải chuyển hồ sơ vụ
án đến Tòa án cấp phúc thẩm để giải quyết theo thẩm quyền.
II. THI HÀNH ÁN HÌNH SỰ
1. Việc cho người bị kết án hưởng thời hiệu thi hành
bản án thuộc thẩm quyền của Tòa án nào. Tòa án ra bản án hay Tòa án nơi người
bị kết án đang chấp hành án?
Trường hợp trên, Tòa án đã ra bản án có thẩm quyền thông
báo cho người bị kết án hưởng thời hiệu thi hành bản án[1].
2. Tòa án có phải ra quyết định thi hành án phạt tù
đối với quyết định buộc chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo
không?
Khi thi hành án treo, Tòa án căn cứ Điều 84
của Luật Thi hành án hình sự năm 2019 ra quyết định thi hành án treo. Theo
đó, Ủy ban nhân dân cấp xã căn cứ vào quyết định này để tổ chức thi hành. Để
thi hành quyết định buộc phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án
treo thì Tòa án phải ra quyết định thi hành án phạt tù đối với quyết định này
để cơ quan thi hành án hình sự tổ chức thi hành theo quy định.
3. Tòa án có phải ra quyết định thi hành án đối với
quyết định tổng hợp hình phạt của nhiều bản án hay không?
Theo quy định tại khoản 1 Điều 364 của Bộ
luật Tố tụng hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2021) thì Tòa án có
thẩm quyền đã ra quyết định thi hành án đối với mỗi bản án có hiệu lực pháp
luật. Do đó, Tòa án không ra quyết định thi hành án đối với quyết định tổng hợp
hình phạt của nhiều bản án.
4. Trường hợp bị cáo chấp hành xong hình phạt tù của
bản án đã tuyên trong thời hạn kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm hoặc bị cáo đang
tại ngoại nhưng trước đó đã bị tạm giữ, tạm giam mà thời hạn tạm giữ, tạm giam
bằng thời hạn phạt tù của bản án đã tuyên thì Tòa án có ra quyết định thi hành
án phạt tù không?
Trường hợp trên, Tòa án không ra quyết định thi hành án
phạt tù. Khi bản án có hiệu lực pháp luật, Tòa án gửi bản án cho cơ quan thi
hành án hình sự theo quy định.
III. ÁP DỤNG BIỆN PHÁP XỬ LÝ HÀNH CHÍNH
TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN
Trường hợp người bị đề nghị đưa vào cơ sở cai nghiện
bắt buộc đang bị đưa vào cơ sở cai nghiện để cắt cơn, giải độc chờ lập hồ sơ.
Khi Tòa án mở phiên họp thì cơ quan nào có thẩm quyền dẫn giải đối tượng này
đến phiên họp và thủ tục thực hiện như thế nào?
Hiện nay, Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 (sửa đổi,
bổ sung năm 2020) không quy định biện pháp dẫn giải. Đây là biện pháp hạn chế
quyền con người, không được quy định bởi luật thì không được áp dụng. Do đó,
trường hợp này không được áp dụng biện pháp dẫn giải.
IV. DÂN SỰ, TỐ TỤNG DÂN SỰ
1. Đương sự ủy quyền cho người đại diện tham gia tố
tụng. Trường hợp Tòa án không thể tống đạt trực tiếp cho người đại diện theo ủy
quyền thì có thể tống đạt cho người ủy quyền và người ủy quyền có nghĩa vụ
thông báo lại cho người được ủy quyền hay không?
Trường hợp đương sự đã ủy quyền cho người khác đại diện cho
mình tham gia tố tụng thì Tòa án chỉ tống đạt cho người đại diện của đương sự
mà không phải tống đạt cho đương sự. Tuy nhiên, trường hợp Tòa án không thể
tống đạt trực tiếp cho người đại diện theo ủy quyền thì Tòa án thực hiện thủ
tục niêm yết công khai quy định tại Điều 179 của Bộ luật Tố
tụng dân sự và tống đạt trực tiếp cho đương sự ủy quyền.
2. Hiện nay, việc tống đạt cho đương sự cư trú tại
các chung cư thường gặp khó khăn do bị cản trở hoặc không hợp tác của bảo vệ,
Ban quản lý chung cư. Vậy, Tòa án có thể niêm yết tại khu vực bản tin chung,
sảnh chung cư hay không?
Khoản 1 Điều 179 của Bộ luật Tố tụng dân sự
thì việc niêm yết công khai văn bản tố tụng được thực hiện trong trường hợp
không thể cấp, tống đạt, thông báo trực tiếp văn bản tố tụng theo quy định tại Điều 177 và Điều 178 của Bộ luật này.
Khoản 2 Điều 179 của Bộ luật Tố tụng dân sự
quy định: “Việc niêm yết công khai văn bản tố tụng do Tòa án trực tiếp thực
hiện hoặc ủy quyền cho người có chức năng tống đạt hoặc Ủy ban nhân dân cấp xã
nơi đương sự cư trú, nơi cơ quan, tổ chức có trụ sở thực hiện theo thủ tục sau
đây:
a) Niêm yết bản chính tại trụ sở Tòa án, Ủy ban nhân dân
cấp xã nơi cư trú hoặc nơi cư trú cuối cùng của cá nhân, nơi có trụ sở hoặc trụ
sở cuối cùng của cơ quan, tổ chức được cấp, tống đạt, thông báo;
b) Niêm yết bản sao tại nơi cư trú hoặc nơi cư trú cuối
cùng của cá nhân, nơi có trụ sở hoặc trụ sở cuối cùng của cơ quan, tổ chức được
cấp, tống đạt, thông báo;
c) Lập biên bản về việc thực hiện thủ tục niêm yết công
khai, trong đó ghi rõ ngày, tháng, năm niêm yết”.
Như vậy, trong trường hợp này thì Tòa án phải thực hiện
niêm yết tại địa chỉ căn hộ của chung cư nơi cư trú hoặc nơi cư trú cuối cùng
của đương sự đó.
3. Biên bản hòa giải của Tòa án ghi nhận nội dung
nguyên đơn rút toàn bộ yêu cầu khởi kiện. Sau đó, Tòa án hướng dẫn nhưng nguyên
đơn không làm đơn rút yêu cầu khởi kiện. Tòa án có căn cứ vào biên bản hòa giải
thể hiện nguyên đơn đã rút toàn bộ yêu cầu khởi kiện để ra quyết định đình chỉ
giải quyết vụ án theo quy định tại Điều 217 của Bộ luật Tố tụng
dân sự được không?
Trường hợp nêu trên thì Tòa án căn cứ điểm
c khoản 1 Điều 217 của Bộ luật Tố tụng dân sự và biên bản hòa giải thể hiện
nguyên đơn đã rút toàn bộ yêu cầu khởi kiện để ra quyết định đình chỉ giải
quyết vụ án. Nếu trong vụ án đó có bị đơn có yêu cầu phản tố, người có quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập thì Tòa án căn cứ khoản
2 Điều 217 của Bộ luật Tố tụng dân sự để giải quyết như sau:
(1) Bị đơn rút toàn bộ yêu cầu phản tố, người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan rút toàn bộ yêu cầu độc lập thì Tòa án ra quyết định đình
chỉ giải quyết vụ án;
(2) Bị đơn không rút hoặc chỉ rút một phần yêu cầu phản tố
thì Tòa án ra quyết định đình chỉ giải quyết đối với yêu cầu khởi kiện của
nguyên đơn; bị đơn trở thành nguyên đơn, nguyên đơn trở thành bị đơn;
(3) Bị đơn rút toàn bộ yêu cầu phản tố, người có quyền lợi
và nghĩa vụ liên quan không rút hoặc chỉ rút một phần yêu cầu độc lập thì Tòa
án ra quyết định đình chỉ giải quyết đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn,
yêu cầu phản tố của bị đơn; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trở thành
nguyên đơn, người nào bị khởi kiện theo yêu cầu độc lập trở thành bị đơn.
Đối với vụ án được xét xử lại theo thủ tục sơ thẩm sau khi
có quyết định giám đốc thẩm, tái thẩm thì căn cứ khoản 4 Điều
217 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án đình chỉ giải quyết vụ án khi có sự
đồng ý của bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và phải giải quyết
hậu quả của việc thi hành án, các vấn đề khác liên quan (nếu có).
4. Trong việc dân sự tuyên bố một người là đã chết
hoặc mất tích, Tòa án có đưa người bị yêu cầu tuyên bố là đã chết hoặc mất tích
vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan hay
không?
Trường hợp này, Tòa án xác định tư cách tham gia tố tụng
của người bị tuyên bố mất tích hoặc tuyên bố là đã chết là người bị yêu cầu
theo quy định tại Chương XXVI về thủ tục giải quyết yêu cầu
tuyên bố một người mất tích và Chương XXVII về thủ tục giải
quyết yêu cầu tuyên bố một người đã chết của Bộ luật Tố tụng dân sự.
5. Khi giải quyết yêu cầu tuyên bố một người là đã
chết, Tòa án xác định ngày chết của người bị yêu cầu tuyên bố là đã chết trong
trường hợp quy định tại điểm d khoản 1 Điều 71 của Bộ luật Dân
sự năm 2015 như thế nào?
Quan điểm thứ nhất cho rằng: Ngày chết là ngày quyết
định của Tòa án tuyên bố một người là đã chết có hiệu lực pháp luật
Quan điểm thứ hai cho rằng: Ngày chết là ngày đầu
tiên kế tiếp của ngày kết thúc thời hạn biệt tích 5 năm liền.
Quan điểm thứ ba cho rằng: Ngày chết là ngày có tin
tức cuối cùng của người đó.
Theo quy định tại điểm d khoản 1 Điều 71
của Bộ luật Dân sự thì: “Người có quyền, lợi ích liên quan có thể yêu
cầu Tòa án ra quyết định tuyên bố một người là đã chết trong trường hợp sau
đây:
... d) Biệt tích 05 năm liền trở lên và không có tin tức
xác thực là còn sống; thời hạn này được tính theo quy định tại khoản
1 Điều 68 của Bộ luật này”.
Khoản 2 Điều 71 của Bộ luật Dân sự quy
định: “Căn cứ vào các trường hợp quy định tại khoản 1
Điều này, Tòa án xác định ngày chết của người bị tuyên bố là đã chết”.
Khi giải quyết yêu cầu tuyên bố một người là đã chết quy
định tại điểm d khoản 1 Điều 71 của Bộ luật Dân sự thì Tòa
án xác định ngày chết theo quan điểm thứ hai. Theo đó, ngày chết của người bị
yêu cầu tuyên bố là đã chết được xác định là ngày đầu tiên kế tiếp của ngày kết
thúc thời hạn 05 năm liền kể từ ngày biết được tin tức cuối cùng về người đó;
nếu không xác định được ngày có tin tức cuối cùng thì thời hạn này được tính từ
ngày đầu tiên của tháng tiếp theo tháng có tin tức cuối cùng; nếu không xác
định được ngày, tháng có tin tức cuối cùng thì thời hạn này được tính từ ngày
đầu tiên của năm tiếp theo năm có tin tức cuối cùng. Việc xác định thời điểm
kết thúc thời hạn được thực hiện theo quy định tại Điều 148 của
Bộ luật Dân sự.
6. Khoản 4 Điều 388 của Bộ luật Tố
tụng dân sự quy định về chuẩn bị xét đơn yêu cầu tuyên bố một người mất
tích như sau: “Trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày kết thúc thời hạn thông báo
quy định tại khoản 2 Điều này thì Tòa án phải mở phiên họp
xét đơn yêu cầu”. Vậy, quyết định mở phiên họp và các văn bản tố tụng khác có
cần tiến hành niêm yết tại địa phương đối với người bị yêu cầu hay không? Nếu
có thì thời hạn niêm yết là bao nhiêu ngày?
Khoản 1 Điều 179 của Bộ luật Tố tụng dân sự
quy định: “Việc niêm yết công khai văn bản tố tụng được thực hiện trong
trường hợp không thể cấp, tống đạt, thông báo trực tiếp văn bản tố tụng theo
quy định tại Điều 177 và Điều 178 của Bộ luật này”.
Như vậy, trong trường hợp này người bị yêu cầu không thể
nhận văn bản tố tụng thông qua việc tống đạt trực tiếp nên Tòa án phải tiến
hành niêm yết quyết định mở phiên họp giải quyết việc dân sự và các văn bản tố
tụng khác đối với người bị yêu cầu. Theo quy định tại khoản 3
Điều 179 của Bộ luật Tố tụng dân sự thì thời hạn niêm yết công khai văn bản
tố tụng là 15 ngày, kể từ ngày niêm yết.
7. Trong giai đoạn nhận và xử lý đơn khởi kiện, người
khởi kiện cung cấp thông tin người bị kiện đã chết trước khi người khởi kiện
làm đơn khởi kiện nhưng không cung cấp được giấy chứng tử và người kế thừa
quyền và nghĩa vụ tố tụng của người bị kiện theo yêu cầu của Tòa án thì có
thuộc trường hợp chưa đủ điều kiện khởi kiện không?
Trường hợp Tòa án đã thụ lý vụ án, sau đó xác minh là
bị đơn chết trước thời điểm khởi kiện và nguyên đơn không cung cấp được người
kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng thì giải quyết như thế nào?
Trong giai đoạn nhận và xử lý đơn khởi kiện, người khởi
kiện cung cấp thông tin người bị kiện đã chết trước khi người khởi kiện làm đơn
khởi kiện nhưng không cung cấp được giấy chứng tử và người kế thừa quyền và
nghĩa vụ tố tụng của người bị kiện theo yêu cầu sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện
của Tòa án thì Tòa án căn cứ điểm e khoản 1 Điều 192 của Bộ
luật Tố tụng dân sự để trả lại đơn khởi kiện.
Trường hợp Tòa án đã thụ lý vụ án, sau đó xác minh là bị
đơn chết trước thời điểm khởi kiện và nguyên đơn không cung cấp được người kế
thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng thì Tòa án hướng dẫn nguyên đơn làm đơn rút yêu
cầu khởi kiện. Trường hợp Tòa án đã hướng dẫn nhưng nguyên đơn không làm đơn
rút yêu cầu khởi kiện thì Tòa án căn cứ điểm a khoản 1 Điều 217
của Bộ luật Tố tụng dân sự để ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án.
8. A kiện đòi nợ B và xuất trình giấy vay tiền có chữ
ký của B. B không công nhận chữ ký trong giấy vay tiền và yêu cầu trưng cầu
giám định (B đã nộp tiền tạm ứng chi phí giám định). Kết luận giám định không
phải là chữ ký của B. Sau đó, A rút toàn bộ yêu cầu khởi kiện. Trường hợp này,
Tòa án ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án, nguyên đơn phải chịu chi phí
giám định. Tuy nhiên, theo Mẫu số 45-DS Quyết định đình chỉ giải quyết vụ án
dân sự thì chỉ có mục hậu quả của việc đình chỉ quy định tại Điều
218 của Bộ luật Tố tụng dân sự (cụ thể là về án phí), không có mục quy định
về chi phí tố tụng. Tòa án có được giải quyết về chi phí tố tụng ngay trong
quyết định đình chỉ không?
Trường hợp này, Tòa án căn cứ quy định tại khoản
3 Điều 161, khoản 1 Điều 162 của Bộ luật Tố tụng dân sự để xử lý tiền tạm
ứng chi phí giám định đã nộp và quyết định nghĩa vụ chịu chi phí giám định
trong quyết định đình chỉ giải quyết vụ án, theo đó A phải chịu chi phí giám
định và B đã nộp tiền tạm ứng chi phí giám định nên A phải hoàn trả cho B.
9. Tranh chấp bất động sản được Tòa án nhân dân huyện
A thụ lý, giải quyết đúng thẩm quyền theo nơi có bất động sản, tuy nhiên bản án
đã bị Tòa án cấp trên hủy để xét xử lại theo thủ tục chung. Trong quá trình thụ
lý, giải quyết lại vụ án, do có việc chia tách, sáp nhập địa giới hành chính
nên địa chỉ bất động sản đang có tranh chấp nay thuộc về địa giới của huyện B.
Vậy, Tòa án đang thụ lý, giải quyết vụ án có phải chuyển hồ sơ cho Tòa án nơi
có bất động sản sau khi được chia tách, sáp nhập không?
Điểm c khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng
dân sự quy định: “Đối với tranh chấp là bất động sản thì chỉ Tòa án nơi
có bất động sản có thẩm quyền giải quyết”. Do đó, trường hợp sau khi chia
tách, sáp nhập địa giới hành chính, bất động sản thuộc về địa giới của huyện
khác thì cần phân biệt như sau:
- Trường hợp Tòa án chưa ra Quyết định đưa vụ án ra xét xử
thì Tòa án phải chuyển hồ sơ vụ án đến Tòa án nơi có bất động sản sau khi được
chia tách, sáp nhập để giải quyết theo thẩm quyền.
- Trường hợp Tòa án đã ra Quyết định đưa vụ án ra xét xử
thì Tòa án không chuyển hồ sơ vụ án đến Tòa án nơi có bất động sản sau khi được
chia tách, sáp nhập mà tiếp tục giải quyết vụ án theo thủ tục chung.
10. Trong quá trình giải quyết vụ án theo thủ tục sơ
thẩm, nguyên đơn rút một phần yêu cầu khởi kiện, toàn bộ nội dung tranh chấp
còn lại được các đương sự thỏa thuận và thống nhất trước khi có quyết định đưa
vụ án ra xét xử. Vậy, trong trường hợp này, Tòa án sẽ phải giải quyết như thế
nào?
Trường hợp trong vụ án đương sự vừa rút một phần yêu cầu
khởi kiện vừa thỏa thuận được với nhau về giải quyết vụ án trước khi có quyết
định đưa vụ án ra xét xử thì Tòa án không ra quyết định đình chỉ đối với phần
yêu cầu đã rút. Trong phần nhận định của quyết định công nhận sự thỏa thuận của
các đương sự phải ghi rõ nội dung đương sự đã rút một phần yêu cầu nên Tòa án
không xem xét phần yêu cầu mà đương sự đã rút.
11. Các bên tranh chấp đã được Ủy ban nhân dân cấp xã
nơi có đất tranh chấp thực hiện việc hòa giải tranh chấp đất đai theo quy định
của Luật Đất đai. Người khởi kiện đã khởi kiện tranh chấp đất đai và được Tòa
án có thẩm quyền thụ lý, giải quyết vụ án dân sự. Sau đó, người khởi kiện rút
đơn khởi kiện và Tòa án ra quyết định đình chỉ việc giải quyết vụ án. Khi khởi
kiện lại vụ án này thì Tòa án có yêu cầu các bên hòa giải lại tại Ủy ban nhân
dân cấp xã hay không?
Theo quy định tại Điều 235 và Điều 236 của
Luật Đất đai năm 2024 thì tranh chấp đất đai phải được hòa giải tại Ủy ban
nhân dân xã, phường, thị trấn nơi có đất tranh chấp. Trường hợp khi khởi kiện
lại nếu nguyên đơn, bị đơn, đối tượng tranh chấp, quan hệ tranh chấp không thay
đổi so với khi hòa giải tại Ủy ban nhân dân cấp xã thì không phải hòa giải lại
tại Ủy ban nhân dân cấp xã.
12. Trong quá trình giải quyết vụ án dân sự, Tòa án
xét thấy cần phải đưa người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan tham gia tố tụng
để xem xét nghĩa vụ liên đới bồi thường cho nguyên đơn. Nguyên đơn không có yêu
cầu người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bồi thường. Tòa án quyết định người
có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan phải bồi thường cho nguyên đơn. Việc Tòa án
quyết định như vậy có vượt quá yêu cầu của nguyên đơn không?
Khoản 1 Điều 5 của Bộ luật Tố tụng dân sự
quy định: “Đương sự có quyền quyết định việc khởi kiện, yêu cầu Tòa án có
thẩm quyền giải quyết vụ việc dân sự. Tòa án chỉ thụ lý giải quyết vụ việc dân
sự khi có đơn khởi kiện, đơn yêu cầu của đương sự và chỉ giải quyết trong phạm
vi đơn khởi kiện, đơn yêu cầu đó”.
Khoản 1 Điều 288 của Bộ luật Dân sự quy
định: “Nghĩa vụ liên đới là nghĩa vụ do nhiều người cùng phải thực hiện và
bên có quyền có thể yêu cầu bất cứ ai trong số những người có nghĩa vụ phải
thực hiện toàn bộ nghĩa vụ”.
Như vậy, trong trường hợp nêu trên, Tòa án quyết định người
có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan phải bồi thường cho nguyên đơn là vượt quá yêu
cầu của nguyên đơn.
13. Trường hợp tại phiên tòa Hội đồng xét xử căn cứ Điều 259 của Bộ luật Tố tụng dân sự ra quyết định tạm ngừng
phiên tòa. Hết thời hạn tạm ngừng phiên tòa, Tòa án mở lại phiên tòa thì một
trong các đương sự vắng mặt tại phiên tòa được mở lại. Vậy, Hội đồng xét xử có
được xét xử vắng mặt đương sự không, hay phải hoãn phiên tòa?
Khoản 1 Điều 233 của Bộ luật Tố tụng dân sự
quy định: “Hội đồng xét xử quyết định hoãn phiên tòa trong các trường hợp
quy định tại khoản 2 Điều 56, khoản 2 Điều 62, khoản 2 Điều 84,
Điều 227, khoản 2 Điều 229, khoản 2 Điều 230, khoản 2 Điều 231 và Điều 241 của Bộ luật này”.
Như vậy, trường hợp nêu trên không thuộc trường hợp hoãn
phiên tòa. Tuy nhiên, nếu đương sự không được thông báo hợp lệ về thời gian
tiếp tục phiên tòa thì Hội đồng xét xử phải hoãn phiên tòa. Nếu đương sự đã
được thông báo hợp lệ về thời gian tiếp tục phiên tòa theo quy định tại khoản 2 Điều 259 của Bộ luật Tố tụng dân sự mà vẫn vắng mặt
thì Hội đồng xét xử tiếp tục giải quyết vụ án.
14. Quyết định giám đốc thẩm hủy toàn bộ bản án dân
sự sơ thẩm và phúc thẩm, giao Tòa án cấp sơ thẩm xét xử lại vụ án. Tuy nhiên,
sau khi bản án phúc thẩm có hiệu lực, nguyên đơn đã được trả lại toàn bộ tiền
tạm ứng án phí đã nộp. Trong trường hợp này, nếu nguyên đơn không nộp lại tiền
tạm ứng án phí thì Tòa án cấp sơ thẩm có thụ lý lại vụ án hay không?
Khoản 7 Điều 18 của Nghị quyết số
326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định
về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án
quy định:
“Trường hợp bản án, quyết định sơ thẩm, phúc thẩm có
hiệu lực pháp luật bị Tòa án xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm hủy bản án sơ thẩm,
phúc thẩm mà tiền tạm ứng án phí, án phí đã được trả lại cho người khởi kiện,
người kháng cáo thì khi Tòa án cấp sơ thẩm hoặc phúc thẩm thụ lý lại vụ án phải
yêu cầu người khởi kiện, người kháng cáo nộp lại tiền tạm ứng án phí”.
Như vậy trong trường hợp nêu trên, Tòa án cấp sơ thẩm thụ
lý lại vụ án kể từ thời điểm nhận lại hồ sơ vụ án. Sau khi thụ lý vụ án mà
nguyên đơn không nộp lại tiền tạm ứng án phí thì Tòa án ra quyết định đình chỉ
giải quyết vụ án theo quy định tại điểm g khoản 1 Điều 217 của
Bộ luật Tố tụng dân sự và giải quyết hậu quả của việc thi hành án, các vấn
đề khác có liên quan (nếu có) theo quy định tại khoản 4 Điều
217 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Do nguyên đơn không nộp lại tiền tạm ứng án
phí nên Tòa án không phải quyết định về án phí khi giải quyết hậu quả của việc
đình chỉ giải quyết vụ án dân sự theo quy định tại khoản 3 Điều
218 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
15. Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất không
được công chứng, chứng thực do vi phạm điều kiện tách thửa. Tuy nhiên, bên nhận
chuyển nhượng đã thực hiện hai phần ba nghĩa vụ hoặc đã trả hết tiền cho bên
chuyển nhượng và đã xây dựng nhà ở trên đất nhận chuyển nhượng mà không bị
chính quyền địa phương xử lý. Vậy, trong những trường hợp này Tòa án có công
nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất không?
Đối với trường hợp áp dụng Luật Đất đai năm 2013, Điều 29 của Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của
Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Đất đai quy định về
cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn
liền với đất đối với trường hợp thửa đất có diện tích nhỏ hơn diện tích tối thiểu,
như sau:
“1. Thửa đất đang sử dụng được hình thành từ trước ngày
văn bản quy định của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh về diện tích tối thiểu được tách
thửa có hiệu lực thi hành mà diện tích thửa đất nhỏ hơn diện tích tối thiểu
theo quy định của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh nhưng có đủ điều kiện cấp Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất thì
người đang sử dụng đất được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu
nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất.
2. Không được công chứng, chứng thực, cấp Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất và
không được làm thủ tục thực hiện các quyền của người sử dụng đất đối với trường
hợp tự chia tách thửa đất đã đăng ký, đã được cấp Giấy chứng nhận thành hai
hoặc nhiều thửa đất mà trong đó có ít nhất một thửa đất có diện tích nhỏ hơn
diện tích tối thiểu theo quy định của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh.
3. Trường hợp người sử dụng đất xin tách thửa đất thành
thửa đất có diện tích nhỏ hơn diện tích tối thiểu đồng thời với việc xin được
hợp thửa đất đó với thửa đất khác liền kề để tạo thành thửa đất mới có diện
tích bằng hoặc lớn hơn diện tích tối thiểu được tách thửa thì được phép tách
thửa đồng thời với việc hợp thửa và cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất,
quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất cho thửa đất mới”.
Đối với trường hợp áp dụng Luật Đất đai năm 2024, Điều 146 của Luật này quy định:
“Điều 146. Cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền
sở hữu tài sản gắn liền với đất đối với trường hợp thửa đất có diện tích nhỏ
hơn diện tích tối thiểu
1. Thửa đất đang sử dụng được hình thành trước ngày văn
bản quy định của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh về diện tích tối thiểu được tách thửa
có hiệu lực thi hành mà diện tích thửa đất nhỏ hơn diện tích tối thiểu theo quy
định của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh nhưng có đủ điều kiện cấp Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất thì người đang sử dụng
đất được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền
với đất.
2. Không cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở
hữu tài sản gắn liền với đất đối với trường hợp tự chia, tách thửa đất đã đăng
ký, đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc Giấy chứng nhận quyền sở
hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở hoặc Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền
sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất hoặc Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất thành 02 hoặc nhiều thửa đất mà
trong đó có ít nhất 01 thửa đất có diện tích nhỏ hơn diện tích tối thiểu được
tách thửa theo quy định tại Điều 220 của Luật này.
3. Trường hợp thửa đất đã được cấp Giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất hoặc Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở hoặc
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền
với đất hoặc Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền
với đất mà người sử dụng đất có nhu cầu tách thửa, hợp thửa nếu đáp ứng đủ điều
kiện theo quy định tại Điều 220 của Luật này thì được cấp
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất cho
từng thửa đất sau khi tách thửa, hợp thửa.”
Như vậy, trong trường hợp nêu trên, Tòa án chỉ công nhận
hiệu lực của giao dịch dân sự khi thửa đất đáp ứng được các điều kiện quy định
tại khoản 1 và khoản 3 Điều 29 của Nghị định số 43/2014/NĐ-CP
hoặc khoản 1 và khoản 3 Điều 146 của Luật Đất đai năm 2024.
Nếu thửa đất thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 29 của
Nghị định số 43/2014/NĐ-CP hoặc khoản 2 Điều 146 của Luật
Đất đai năm 2024 thì Tòa án tuyên hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
vô hiệu.
16. Do vụ việc không đủ căn cứ khởi tố vụ án hình sự,
Chi hội Người cao tuổi thôn A thuộc xã B, huyện C khởi kiện yêu cầu bà D là
thành viên đồng thời là thủ quỹ của Chi hội Người cao tuổi thôn khóa trước trả
lại tiền quỹ còn dư của khóa trước thì xác định tư cách nguyên đơn trong vụ án
như thế nào? Nguyên đơn là Hội Người cao tuổi xã B (Hội Người cao tuổi cơ sở)
hay Chi hội Người cao tuổi thôn A (Chi hội có nhiệm vụ thu và quản lý sử dụng
hội phí, quỹ hội)?
Theo quy định tại khoản 4 Điều 12 Điều lệ
(sửa đổi, bổ sung) Hội Người cao tuổi Việt Nam được phê duyệt theo Quyết định
số 288/QĐ-BNV ngày 06/4/2022 của Bộ Nội vụ thì: “Chi hội, tổ hội người
cao tuổi thuộc Hội Người cao tuổi cơ sở tại địa bàn thôn, ấp, bản, làng, phum,
sóc, tổ dân phố, khu dân cư hoặc tương đương thuộc Hội Người cao tuổi cơ sở”.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 22 Điều lệ
(sửa đổi, bổ sung) Hội Người cao tuổi Việt Nam thì: “Hội Người cao tuổi
cơ sở là nền tảng của Hội. Hội cơ sở có con dấu, tài khoản, trụ sở, được hỗ trợ
kinh phí hoạt động theo quy định của pháp luật”.
Như vậy, do Chi hội Người cao tuổi thôn A thuộc Hội Người
cao tuổi cơ sở xã B, nên nguyên đơn là Hội Người cao tuổi xã B.
17. Điểm c khoản 1 Điều 217 của Bộ
luật Tố tụng dân sự về đình chỉ giải quyết vụ án dân sự quy định: “Người
khởi kiện rút toàn bộ yêu cầu khởi kiện hoặc nguyên đơn đã được triệu tập hợp
lệ lần thứ hai mà vẫn vắng mặt, trừ trường hợp họ đề nghị xét xử vắng mặt hoặc
vì sự kiện bất khả kháng, trở ngại khách quan”. Vậy, trong giai đoạn chuẩn bị
xét xử, nếu nguyên đơn đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn
vắng mặt, không đến Tòa án để lấy lời khai hoặc tham gia phiên họp kiểm tra
việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải thì Tòa án có thể ra
quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự được không?
Điểm c khoản 1 Điều 217 của Bộ luật Tố tụng
dân sự quy định: “Người khởi kiện rút toàn bộ yêu cầu khởi kiện hoặc
nguyên đơn đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà vẫn vắng mặt, trừ trường hợp
họ đề nghị xét xử vắng mặt hoặc vì sự kiện bất khả kháng, trở ngại khách quan”.
Khoản 3 Điều 210 của Bộ luật Tố tụng dân sự
quy định: “Sau khi các đương sự đã trình bày xong, Thẩm phán xem xét các ý
kiến, giải quyết các yêu cầu của đương sự quy định tại khoản 2
Điều này. Trường hợp người được Tòa án triệu tập vắng mặt thì Tòa án thông báo
kết quả phiên họp cho họ”.
Như vậy, theo các quy định nêu trên, trong giai đoạn chuẩn
bị xét xử sơ thẩm vụ án, cần phân biệt như sau:
- Trường hợp nguyên đơn đã được triệu tập hợp lệ lần thứ
hai để lấy lời khai mà vẫn vắng mặt thì Tòa án quyết định đình chỉ giải quyết
vụ án, trừ trường hợp họ đề nghị Tòa án xét xử văng mặt hoặc vì sự kiện bất khả
kháng, trở ngại khách quan.
- Trường hợp nguyên đơn được triệu tập hợp lệ lần thứ hai
để tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và
hòa giải mà vẫn vắng mặt thì Tòa án thông báo kết quả phiên họp cho đương sự
vắng mặt. Do vậy, Tòa án vẫn tiến hành các thủ tục để giải quyết vụ án theo quy
định.
Trên đây là giải đáp một số vướng mắc trong xét xử của Hội
đồng Thẩm phán, Tòa án nhân dân tối cao thông báo để các Tòa án nghiên cứu tham
khảo trong quá trình giải quyết các vụ việc thuộc thẩm quyền./.
|
|
KT.
CHÁNH ÁN |
[1] Về
vấn đề này, trước đây đã hướng dẫn tại khoản 1 mục V Thông tư liên ngành số
04/TTLN ngày 26/12/1986 của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối
cao, Bộ Tư pháp, Bộ Nội vụ hướng dẫn việc áp dụng thời hiệu thi hành bản án
hình sự.
0 Nhận xét